Hòe hoa chứa cả chất chống xuất huyết và chất hoạt huyết. Hòe hoa làm giảm nhồi máu não một phần là do hoạt động chống oxy hóa và chống viêm của nó. Cần nghiên cứu thêm để xác định mối quan hệ giữa việc giảm kích thước nhồi máu não do Hòe hoa làm trung gian và tác dụng của nó đối với sự kết tập tiểu cầu và chức năng tim mạch.
Giới thiệu về Hòe hoa
Hòe hoa (tên khoa học:
Sophora japonica L.) – còn được gọi là cây học giả Trung Quốc (tiếng Trung: “槐,” “zhong guo huai,” hoặc “huai shu”), cây tháp Nhật Bản (tiếng Anh), Hoe-wha-na-moo (tiếng Hàn), Sophora du Japon (tiếng Pháp), Japanischer Schnurbaum (tiếng Đức) và acacia del Japón (tiếng Tây Ban Nha) – là một loài cây bụi thuộc phân họ Faboideae của họ đậu Fabaceae (Orwa et al., 2009). Đây là một loại cây bóng mát mọc ở các vùng nhiệt đới và thường được sử dụng để làm cảnh quan đô thị. Hòe cũng được sử dụng trong
y học cổ truyền với tác dụng lương huyết, chỉ huyết (Zheng et al., 1998). Quan trọng hơn, mọi bộ phận của cây Hòe, bao gồm hoa, nụ, lá, vỏ và hạt, đều được sử dụng làm thuốc. Hoa khô (Huaihua hoặc Flos Sophorae) và nụ hoa (Huaimi hoặc Flos Sophorae Immaturus) đều có trong cả Dược điển Trung Quốc và Dược điển Châu Âu. Cả hoa và nụ hoa đều có cùng công dụng làm thuốc, với hoạt tính sinh học đáng kể, trong điều trị bệnh trĩ chảy máu, tiểu ra máu, nôn ra máu, xuất huyết tử cung hoặc ruột, rong kinh, khí hư, viêm kết mạc, mủ da, đặc biệt là xơ vữa động mạch,
tăng huyết áp và chóng mặt (Ishida và cộng sự, 1989; Công ty Y học Trung Quốc, 1994; Tang và Eisenbrand, 1992, Han và cộng sự, 1996).
Các thành phần chính của Hòe (S. Japonica) bao gồm flavonoid, isoflavonoid, triterpene và glycoside, alkaloid, phospholipid (PL), axit amin, nguyên tố vi lượng và polysaccharide. Trong số các hợp chất này, kaempferol (1), quercetin (21), rutin (28), isorhamnetin (34), genistein (40) và sophoricoside (52) là các thành phần hoạt tính chính của S. japonica. Rutin (28), nói riêng, là thành phần quan trọng nhất và dồi dào nhất của S. japonica. Hoa hòe (Flos Sophorae Immaturus) là nguồn rutin phong phú và quan trọng. Rutin có thể được chiết xuất từ Flos Sophorae Immaturus một cách dễ dàng và không tốn kém. Các nghiên cứu dược lý hiện đại đã chỉ ra rằng các thành phần hoạt tính hoặc chiết xuất thô của Hòe thể hiện nhiều tác dụng dược lý, chẳng hạn như tác dụng đối với tim mạch cũng như tác dụng chống viêm, chống loãng xương, chống oxy hóa, chống khối u, kháng khuẩn, kháng virus, cầm máu và chống xơ vữa động mạch.
Một số nhà nghiên cứu đã xem xét lai tạo thực vật, nguồn gen, hóa học và hoạt động sinh học của chi Sophora (Krishna và cộng sự, 2012, Mao và cộng sự, 2015). Tuy nhiên, cho đến nay, chưa có đánh giá toàn diện nào về S. japonica được công bố. Bài đánh giá này tập trung cung cấp hiểu biết tốt hơn và tổng quan về dược lý, hoạt động dược lý của Hòe hoa trên bệnh lý nhồi máu não.
Hoa và nụ khô của Sophora japonica được sử dụng như một loại thảo dược ở Việt Nam, Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc để điều trị bệnh trĩ chảy máu và nôn ra máu. Bài viết này trình bày tổng quan về tác dụng của Hòe hoa (Sophora japonica) đối với nhồi máu não. Hòe hoa chứa cả chất chống xuất huyết và chất hoạt huyết. Hòe hoa làm giảm nhồi máu não một phần là do hoạt động chống oxy hóa và chống viêm của nó. Các nghiên cứu trước đây đã phát hiện ra rằng Hòe hoa làm giảm kích thước nhồi máu não và các khiếm khuyết thần kinh và làm giảm hoạt hóa tế bào vi giao, giải phóng interleukin-1β và số lượng tế bào chết theo chương trình ở chuột Sprague-Dawley bị tổn thương do thiếu máu cục bộ - tái tưới máu. Cần nghiên cứu thêm để xác định mối quan hệ giữa việc giảm kích thước nhồi máu não do Hòe hoa làm trung gian và tác dụng của các hoạt chất từ Hòe hoa đối với sự kết tập tiểu cầu và chức năng tim mạch.
Dược lý học của Hòe hoa đối với nhồi máu não
Tác dụng chống oxy hóa
Các nghiên cứu trước đây đã phát hiện ra rằng:
-
Nồng độ anion siêu oxit trong máu động mạch tăng lên khi bắt đầu tái tưới máu sau 2 giờ thiếu máu cục bộ ở chuột bị tắc động mạch não giữa (MCAo);
-
Nồng độ anion siêu oxit trong vùng tổn thương nhu mô não tăng lên trong 2 giờ tái tưới máu sau khi thiếu máu cục bộ não ở chuột bị tổn thương do thiếu máu cục bộ-tái tưới máu;
-
Quế chi, Đào nhân (Prunus persica [L] Batsch), Bạch linh (Poria cocos [Schw.] Wolf), Bạch thược (Paeonia lactiflora Pall), Mẫu đơn bì (Paeonia suffruticosa Andr), Đương quy (Angelica sinensis Oliv. Diels) và Xuyên khung (Ligusticum chuanxiong Hort.) với axit ferulic và Mẫu đơn bì với paeonol là thành phần làm giảm nồng độ anion superoxide trong vòng 2 giờ tái tưới máu sau khi thiếu máu cục bộ, kích thước nhồi máu não và điểm số thiếu hụt thần kinh ở chuột bị tắc động mạch não giữa (MCAo). Hoạt động dọn gốc tự do đã được chứng minh trong lá Ginkgo biloba L. có chứa quercetin và rutin có hoạt động dọn gốc tự do. Chiết xuất từ lá Ginkgo biloba L. (Egb 761) làm giảm kích thước nhồi máu não và cải thiện hành vi thần kinh ở chuột bị MCAo vĩnh viễn và tạm thời.
Ma và cộng sự phát hiện ra rằng các thành phần flavonoid của Hòe (Sophora japonica) đã loại bỏ anion superoxide và các gốc tự do 1,1-diphenyl-2-picrylhydrazyl (DPPH). Các thí nghiệm đơn giản và trực giao để nghiên cứu hoạt động chống oxy hóa của Sophora japonica, Wang và cộng sự đã phát hiện ra rằng các polysaccharides của Hòe hoa đã loại bỏ các gốc tự do hydroxyl và anion superoxide. Cả quercetin và rutin đều thể hiện hoạt động loại bỏ gốc tự do; tuy nhiên, quercetin cung cấp khả năng bảo vệ tốt hơn. Một nghiên cứu đã báo cáo rằng quercetin (tốt hơn rutin) đã bảo vệ hồng cầu thỏ có hàm lượng cholesterol bình thường và cao khỏi quá trình peroxy hóa lipid do các loài oxy phản ứng do t-BuOOH gây ra. Afanas'ev và cộng sự đã phát hiện ra rằng rutin trong phức hợp sắt-rutin ức chế quá trình chuyển đổi anion superoxide thành các gốc hydroxyl ở chuột bình thường và chuột bị quá tải sắt. Kang và cộng sự cho thấy chất chống oxy hóa irisolidone ngăn ngừa quá trình peroxy hóa lipid, tổn thương DNA và giảm apoptosis do hydrogen peroxide gây ra ở nguyên bào sợi phổi của chuột đồng Trung Quốc.
Việc tạo ra các loại oxy phản ứng (ROS) bao gồm các gốc tự do nitơ và oxy đóng vai trò quan trọng trong tổn thương não trong giai đoạn tái tưới máu sau thiếu máu cục bộ. Tổn thương não do tổn thương trung gian do ROS liên quan đến quá trình truyền tín hiệu trao đổi chất giữa ty thể, enzyme sửa chữa DNA và các yếu tố phiên mã dẫn đến apoptosis. Các thành phần chống oxy hóa như trong chiết xuất Gingko biloba đóng vai trò bảo vệ thần kinh. Cả quercetin và rutin đều loại bỏ các gốc tự do, cải thiện trí nhớ không gian và làm giảm tình trạng chết tế bào thần kinh do thiếu máu não tái phát. Rutin làm giảm tổn thương do thiếu máu cục bộ-tái tưới máu bằng cách loại bỏ các loại phản ứng.
Tác dụng chống viêm
Các tế bào vi giao được kích hoạt bởi nhiều loại tổn thương não khác nhau như tổn thương do thiếu máu cục bộ và viêm. Sự kích hoạt này chỉ ra mức độ nghiêm trọng của tổn thương tế bào thần kinh ở chuột bị tắc động mạch não giữa. Nồng độ IL-1β, một cytokine tiền viêm được biểu hiện chủ yếu bởi các tế bào thần kinh đệm như tế bào hình sao, tế bào ít nhánh và tế bào vi giao tăng lên sau tình trạng thiếu máu cục bộ não cục bộ vĩnh viễn trong khi chúng làm giảm sự thâm nhiễm bạch cầu, do đó gây ra tổn thương tế bào thần kinh và phù não. Tương tự như vậy, các nghiên cứu trước đây của cũng phát hiện ra rằng cả Guizhifuling Wan và paeonol đều ức chế hoạt hóa tế bào vi giao và giải phóng IL-1β và làm giảm kích thước nhồi máu não ở chuột bị tắc động mạch não giữa.
Hòe hoa ức chế hoạt hóa tế bào vi giao, giải phóng interleukin-1β (IL-1β) và apoptosis ở chuột mắc bị tắc động mạch não giữa tạm thời, cho thấy Hòe hoa làm giảm viêm và ngăn ngừa chết tế bào thần kinh bằng cách ức chế giải phóng IL-1β của tế bào vi giao, một cytokine tiền viêm. Koda và cộng sự báo cáo rằng việc bổ sung rutin trong chế độ ăn uống 10 hoặc 20 ngày sau khi dùng trimethyltin (TMT) ở chuột làm giảm biểu hiện mRNA IL-1β trong tế bào microglia của hồi hải mã, cho thấy rutin có tác dụng bảo vệ thần kinh chống lại tổn thương tế bào thần kinh do TMT gây ra.
Tác dụng chống kết tập tiểu cầu
Một báo cáo của Hàn Quốc cho thấy rằng, so với axit acetylsalicylic, biochanin A, irisolidone, genistein và tectoridin của Hòe hoa là chất ức chế mạnh hơn đối với sự kết tập tiểu cầu do axit arachidonic và thromboxane A2 gây ra trong huyết tương giàu tiểu cầu và nghèo tiểu cầu ở chuột. Một nghiên cứu phát hiện ra rằng quercetin của Hòe hoa ức chế sự tích tụ canxi tự do trong tiểu cầu, do đó ngăn ngừa sự kết tập tiểu cầu. Sự kết dính tiểu cầu được tăng cường sau bị tắc động mạch não giữa và tái tưới máu ở chuột.
Tác dụng lên hệ tim mạch và đông máu
Tiêm thuốc sắc Hòe hoa vào tĩnh mạch cảnh của thỏ làm giảm co bóp cơ tim và giảm nhịp tim, cho thấy Hòe hoa làm giảm tiêu thụ oxy để bảo vệ chức năng tim. Tác dụng chống xuất huyết của quercetin (chiết xuất nước của nụ Hòe) là do ổn định tính toàn vẹn của mao mạch. Uống chiết xuất Hòe hoa (chứa rutin, quercetin và tannin) trong năm ngày làm giảm tính thấm mao mạch, thời gian chảy máu và thời gian đông máu ở chuột và giảm thời gian prothrombin ở chuột cống, do đó chứng minh tác dụng cầm máu của Hòe hoa. Isorhamnetin từ Hòe hoa cũng có tác dụng chống đông máu, do tăng tính thấm mao mạch và giảm kết tập tiểu cầu.
Kết luận
Hòe hoa chứa cả chất chống xuất huyết và chất hoạt huyết. Hòe hoa làm giảm nhồi máu não một phần là do hoạt động chống oxy hóa và chống viêm của nó. Cần nghiên cứu thêm để xác định mối quan hệ giữa việc giảm kích thước nhồi máu não do Hòe hoa làm trung gian và tác dụng của nó đối với sự kết tập tiểu cầu và chức năng tim mạch.
Trên thực tế, Hòe hoa được sử dụng rộng rãi trong dân gian như một thức trà. Người dân vẫn truyền tai nhau về các tác dụng ổn định huyết áp của Hòe hoa, và thường được những người bị huyết áp cao sử dụng. Mặc dù việc sử dụng trà Hòe hoa khá lành tính, nhưng để áp dụng vị thuốc này vào bệnh lý khó và nguy hiểm như nhồi máu não vẫn cần có sự theo dõi và hướng dẫn của thầy thuốc có chuyên môn.
BS. Tú Uyên (Thọ Xuân Đường)